Theo đó, Bộ Y tế dẫn chứng báo cáo của Tổng cục Thống kê về điều tra quốc gia Người khuyết tật Việt Nam ước tính Việt Nam có khoảng 1,2 trẻ em khuyết tật độ tuổi 0-17 (chiếm 3,1% trẻ trong độ tuổi này), trong đó trẻ dưới 6 tuổi có tỷ lệ khuyết tật (chiếm 1,39% trẻ cùng độ tuổi). Loại khuyết tật phổ biến nhất ở trẻ em trong điều tra tại cộng đồng là khuyết tật về vận động chiếm 22,4% và khuyết tật về nói chiếm 21,4% tổng số trẻ khuyết tật.

Theo Bộ Y tế, nguyên nhân chính của tình trạng khuyết tật ở trẻ em là do khuyết tật bẩm sinh (chiếm 55%-64,6%) và do bệnh tật (chiếm 23,5%-29,1%). Cụ thể, nguyên nhân khuyết tật ở trẻ em có thể phụ thuộc 3 giai đoạn, gồm giai đoạn trước sinh, trong sinh và sau sinh. Trong giai đoạn trước sinh, người mẹ mang thai nếu mắc các bệnh lý virus, ngộ độc thai, tiểu đường, chấn thương... có thể trẻ bị khuyết tật sau sinh.

Các nguyên nhân khiến trẻ gặp khuyết tật tại giai đoạn trong sinh có thể là can thiệp sản khoa (mổ sinh, kích thích sinh...). Các yếu tố khác bao gồm sinh non (dưới 37 tuần), thiếu ô xy não, nhẹ cân (dưới 2,5kg) và vàng da nhân não do bất đồng nhóm máu.

Các vấn đề thường gặp sau sinh khiến trẻ gặp nguy cơ lớn là chấn thương sọ não, chảy máu não, nhiễm trùng thần kinh, suy hô hấp, phơi nhiễm các yếu tố môi trường độc hại, hóa chất, thuốc trừ sâu, kim loại nặng. Sốt co giật cũng là yếu tố nguy cơ. Bên cạnh đó, trong hướng dẫn của Bộ Y tế, khuyết tật có thể do một hoặc nhiều yếu tố nguyên nhân gây nên. Nhưng cũng có nhiều trẻ bị khuyết tật mà không rõ nguyên nhân.

Cũng theo Bộ Y tế, trẻ khuyết tật thường tự ti về tình trạng của mình, cũng như việc không được đối xử bình đẳng trong gia đình và ngoài xã hội. Do đó, phát hiện và can thiệp sớm có tác động tích cực tới trẻ và gia đình, tạo cơ hội cho các em hội nhập xã hội, có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Trong thực tế, khi được phát hiện và can thiệp sớm, nhiều trẻ đã phục hồi tốt và trở thành trẻ bình thường, ví dụ trẻ bị bàn chân khoèo hoặc trật khớp háng bẩm sinh, trẻ tự kỷ nhẹ có chỉ số IQ bình thường. Một số trẻ khuyết tật khác cũng có thể phát triển các kỹ năng gần như trẻ bình thường, như trẻ chậm phát triển vận động, ngôn ngữ so với tuổi; bại não liệt nửa người hoặc hai chân mức độ nhẹ.

Nhờ can thiệp sớm, cha mẹ có kỹ năng xử trí với các vấn đề của trẻ, tăng cường tương tác trẻ - cha mẹ…Thêm vào đó, can thiệp sớm khiến cha mẹ tiếp cận thông tin tốt hơn về: Chẩn đoán, nguyên nhân khuyết tật, hiểu biết về sự phát triển bình thường của trẻ, hệ thống cung cấp dịch vụ hiện có và làm thế nào để kích thích sự phát triển đang bị chậm hoặc rối loạn của trẻ.

Can thiệp sớm giúp anh chị em ruột có thái độ, hành vi đúng mực với các vấn đề của trẻ; đảm bảo gia đình (ông bà, chú bác, cô dì…) sẽ tham gia mạng lưới và hệ thống, cùng phối hợp đối phó với các khó khăn của trẻ đồng thời làm nhẹ gánh nặng cho gia đình thông qua các hoạt động trợ giúp gia đình, chăm sóc trẻ...

Về nguyên nhân gây khuyết tật ở trẻ, Bộ Y tế chia thành 3 nhóm: Trước sinh, trong sinh và sau sinh. Trong đó, nhóm nguyên nhân trước sinh gồm: Bệnh của mẹ khi mang thai (virus, bệnh giáp trạng, ngộ độc thai, tiểu đường, chấn thương...). Tuổi của mẹ trên 35 và bố trên 45 khi sinh con cũng được liệt kê.