Chiều 27-5, TAND TP HCM mở phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án Đòi lại tài sản và yêu cầu xin lỗi công khai liên quan đến một hũ tro cốt và bài vị thờ cha, mẹ.

Đương sự trong vụ án là hai cha con ruột. Trong đó, người cha (tên Lê Văn Tr., SN 1945) khởi kiện con gái ruột (tên Lê Thị Ngọc A., SN 1971) đòi di vật, yêu cầu xin lỗi công khai.

Theo hồ sơ, ông Tr. là người thừa kế thứ nhất và duy nhất của mẹ ruột. Sau khi mẹ ông qua đời, ông Tr. mang hũ cốt về thờ cạnh hũ cốt của cha ông tại Quan Âm tu viện (TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Giữa năm 2018, bà Ngọc A. (con gái ông Tr.) bất ngờ trộm hũ cốt của bà nội, hai bài vị (bia đá) thờ ông, bà nội và bảng tên trên hũ cốt ông nội. Ông Tr. yêu cầu con gái trả lại số di vật trên nhưng bà Ngọc A. không những không chấp nhận mà còn có lời lẽ xúc phạm, đe dọa. Sau thời gian tìm kiếm di vật, ông Tr. tìm thấy hũ cốt của mẹ. Còn hai bài vị và bảng tên, ông không thể tìm ra.

Vì vậy, ông Tr. làm đơn khởi kiện, đề nghị tòa án buộc bị đơn trả lại số di vật "mất tích", xin lỗi công khai và cam kết chấm dứt hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm gia đình ông. Đồng thời, bị đơn không được tới nhà nguyên đơn cũng như đến Quan Âm tu viện.

Trái lại, bị đơn không chấp nhận yêu cầu nguyên đơn đưa ra. Theo bà Ngọc A., bà đã mang hai bài vị của ông, bà nội và bảng tên trên hũ cốt ông nội đi thủy táng ở sông Đồng Nai.

Xử sơ thẩm, TAND quận 2 (TP HCM) kết luận bị đơn đã mang những di vật trên ra khỏi nơi gửi giữ. Theo phong tục nước ta, con trai cả trong gia đình có trách nhiệm (và quyền) thờ cúng cha, mẹ (đã mất). 

Vì vậy, nguyên đơn là người có quyền quản lý bài vị và hài cốt cha, mẹ cho mục đích thờ cúng. Việc bà Ngọc A. mang hũ cốt và bài vị ra khỏi tu viện khi ông Tr. chưa đồng ý là trái đạo lý, phong tục tập quán.

Tòa sơ thẩm cũng cho rằng bài vị là vật thờ cúng, mang giá trị tinh thần, tâm linh chứ không có giá trị trong giao dịch dân sự. Hiện pháp luật không có quy định về việc sử dụng, chiếm hữu và định đoạt đối với bài vị. 

Tòa xác định nguyên đơn là người có quyền sở hữu đối với những vật này. Hành vi tự ý lấy hai bài vị ra khỏi Quan Âm tu viện do bị đơn thực hiện là hành vi xâm phạm quyền sở hữu. Vì vậy, bị đơn có trách nhiệm hoàn trả đúng vật đó hoặc bồi thường nếu nguyên đơn yêu cầu. 

Tuy nhiên, bà Ngọc A. cho biết đã thủy táng hai bài vị; còn ông Tr. không đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh những di vật đó đang tồn tại và do bà Ngọc A. lưu giữ (chiếm hữu) nên vật tranh chấp được coi là không còn, yêu cầu đòi hai bài vị là không phù hợp.

Đồng thời, TAND quận 2 cho rằng không đủ cơ sở chấp nhận quan điểm nguyên đơn đưa ra về yêu cầu bị đơn công khai xin lỗi. Trong quá trình xét xử, nguyên đơn cung cấp bằng chứng bị đơn xúc phạm ông và gia đình qua zalo, facebook. HĐXX sơ thẩm nhận định những tin nhắn này có độ tin tưởng không cao và có thể dễ dàng làm giả. Nguyên đơn cũng không tiến hành lập vi bằng đối với những chứng cứ trên. 

Mặt khác, ông Tr. không đưa ra căn cứ chứng minh ông và gia đình chịu thiệt hại thực tế từ những tin nhắn đó.

Sau phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn kháng cáo theo hướng hủy bản án sơ thẩm.

Tại phiên xử phúc thẩm, bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Nguyên đơn cung cấp thêm nhiều hình ảnh thể hiện những bài đăng có nội dung xúc phạm ông và gia đình trên tài khoản facebook. Ông Tr. khẳng định chủ tài khoản facebook là bà Ngọc A. 

"Trước đó, HĐXX phúc thẩm có hướng dẫn tôi lập vi bằng đối với những chứng cứ này. Do sức khỏe yếu nên tôi chưa kịp làm. Mong HĐXX châm chước, chấp nhận" - ông Tr. trình bày.

Do cần thời gian xem xét, đánh giá thêm những chứng cứ mới do nguyên đơn cung cấp tại tòa, HĐXX quyết định tạm dừng phiên tòa và sẽ tiếp tục xét xử vào ngày 3-6-2020.