- Luật sư Cao Thế Luận, Công ty Luật TNHH Kao Kiến, trả lời: Khoản 1 điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 điều 40 của luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Căn cứ quy định nêu trên, số tiền, vàng vợ chồng bạn có được sau khi đăng ký kết hôn là tài sản chung của vợ chồng bạn.

Việc tặng, mừng tiền, vàng của mọi người dành cho vợ chồng bạn nhân ngày cưới là một dạng của hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định của điều 457 Bộ Luật Dân sự 2015. Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Quy định này nghĩa là đối với việc tặng cho tài sản thì người tặng không còn quyền sở hữu đối với tài sản đó kể từ thời điểm giao tài sản cho người được tặng.

Do đó, tiền, vàng vợ chồng bạn được mọi người tặng, mừng nhân ngày cưới không còn thuộc quyền sở hữu của họ nữa nên họ không có quyền yêu cầu vợ chồng bạn phải trả lại. Nói cách khác, vợ chồng bạn không có nghĩa vụ trả lại tiền, vàng mà mẹ chồng đã tặng lúc cưới.

Ngoài ra, việc tặng tiền, vàng vào ngày cưới không phải là hình thức tặng cho có điều kiện nên khi ly hôn không có nghĩa vụ hoàn trả. Tài sản này được xem là tài sản chung nên khi ly hôn chỉ có thể xem xét chia đôi.