LTS: Chuyện một người mẹ bế con 8 tháng tuổi nhảy cầu Vĩnh Tuy (Hà Nội) tự tử là cảnh báo mới nhất về căn bệnh nguy hiểm trầm cảm sau sinh. Tuy nhiên, đây không phải là dạng trầm cảm duy nhất cần báo động.

GS.TS Cao Tiến Đức - Chủ nhiệm bộ môn Tâm thần và Tâm lý y học, khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103 (Hà Nội) - cho biết đó là rối loạn trầm cảm ở trẻ học đường và sinh viên. Tình trạng này càng cần được quan tâm vì cuộc sống hiện đại rất nhiều bậc cha mẹ ít có thời quan quan tâm đến con cái, và thường vô tình hoặc cố ý tạo ra áp lực lên lớp trẻ.

Rối loạn trầm cảm được đặc trưng bởi nỗi buồn hoặc khó chịu nghiêm trọng hoặc lâu dài, đủ để ảnh hưởng đến hoạt động hoặc gây ra phiền toái đáng kể. Các rối loạn trầm cảm ở trẻ học đường và sinh viên (cũng như trẻ em và thanh thiếu niên nói chung) rất thường gặp.

Theo nhiều nghiên cứu trẻ học đường có nhiều rối loạn tâm thần và hành vi, đặc biệt hay gặp là rối loạn trầm cảm với tỷ lệ 3-4% trong quần thể học sinh, sinh viên.

Như ở người lớn nguyên nhân trầm cảm hoặc do những thất vọng (ví dụ bị bệnh nghiêm trọng) hoặc do mất mát (ví dụ như cái chết của người thân). Các sự kiện và căng thẳng gây ra sự mất mát và đau buồn có thể gây ra một giai đoạn trầm cảm nặng. Ở trẻ học đường và sinh viên được cho là kết quả từ các yếu tố di truyền và những căng thẳng về môi trường (đặc biệt là sự thiếu thốn và mất mát trong cuộc sống), áp lực học tập...

Thực tế có rất nhiều yếu tố có thể tác động tới học sinh, sinh viên: những trẻ có thể lực yếu, gia đình có nhiều mối bất hòa, bố mẹ ly hôn, ly thân, thiếu sự quan tâm chăm sóc của bố mẹ, mất người thân, mất tiền, tài sản. Áp lực học tập căng thẳng, gia đình hoặc bản thân kỳ vọng hoặc đòi hỏi quá khả năng của trẻ. Ngủ ít, do khó ngủ hoặc do học, do chơi quá nhiều ảnh hưởng thời gian ngủ. Một số trò chơi có thể dẫn tới nghiện như chơi game, cờ bạc, sử dụng một số chất như rượu, bia, café, thuốc lá, ma túy…

Ngoài trầm cảm sau sinh, giáo sư BV Quân y chỉ ra một loại trầm cảm nguy hiểm khác - Ảnh 2.

GS.TS Cao Tiến Đức, Chủ nhiệm bộ môn Tâm thần và Tâm lý y học, khoa Tâm thần, Bệnh viện Quân y 103

Triệu chứng và dấu hiệu

Các biểu hiện cơ bản của chứng rối loạn trầm cảm ở trẻ học đường và sinh viên tương tự như ở người lớn nhưng có liên quan đến những mối quan tâm điển hình của trẻ, chẳng hạn như học tập và chơi đùa. Trẻ em có thể không giải thích được cảm xúc bên trong hoặc tâm trạng. Trầm cảm cần được xem xét khi những đứa trẻ hoạt động kém đi so với trước đó, rút khỏi xã hội, hoặc có hành vi phạm pháp.

Ở một số trẻ có rối loạn trầm cảm, tâm trạng nổi trội là khó chịu như cáu gắt bực bội, kích thích, gây hấn hơn là nỗi buồn (một sự khác biệt quan trọng giữa trầm cảm tuổi thơ và người lớn). Sự khó chịu có thể biểu hiện như hành vi hiếu chiến và thái độ chống lại xã hội.

Thống kê cho thấy ở châu Âu có tới 164,48 triệu người dân đã, đang mắc các rối loạn tâm thần trên tổng số 550 triệu dân người dân.

Ở Việt Nam, 10 rối loạn tâm thần hay gặp nhất chiếm 14,8% dân số. Đặc biệt, thống kê từ Viện Tâm thần Quốc gia cho thấy có tới 30% người Việt Nam có vấn đề về sức khỏe tâm thần.

GS.TS Cao Tiến Đức

Ở trẻ khuyết tật trí tuệ, chứng rối loạn tâm trạng trầm cảm hoặc rối loạn tâm trạng khác có thể biểu hiện như các triệu chứng của các bệnh cơ thể và rối loạn hành vi.

Dưới đây là một số dạng biểu hiện trầm cảm ở trẻ học đường và sinh viên:

* Rối loạn tâm trạng hỗn hợp

Rối loạn tâm trạng liên quan đến sự khó chịu liên tục và các giai đoạn thường xuyên của hành vi đó là rất khó kiểm soát, với sự khởi đầu ở tuổi 6-10. Nhiều trẻ em cũng có những rối loạn khác, đặc biệt là chống đối, phản đối, hiếu động thái quá, tăng động giảm chú ý (ADHD) hoặc rối loạn lo âu. Chẩn đoán không được thực hiện trước 6 tuổi hoặc sau 18 tuổi. Khi trưởng thành, bệnh nhân có thể phát triển trầm cảm đơn cực (không phải là lưỡng cực: vừa có cực hưng cảm vừa có cực trầm cảm) hoặc rối loạn lo âu.

Các biểu hiện bao gồm sự hiện diện ≥ 12 tháng của những dấu hiệu sau: Các cơn kích thích thường xuyên nghiêm trọng (ví dụ như giận dữ và / hoặc gây tổn thương đối với người hoặc tài sản) có tần suất cao ≥ 3 lần / tuần. Sự bùng nổ không phù hợp với hoàn cảnh. Trạng thái cáu kỉnh, tức giận hiện diện hàng ngày trong ngày và được quan sát bởi phụ huynh, giáo viên, đồng nghiệp.

* Rối loạn trầm cảm chủ yếu

Là một trầm cảm kéo dài ≥ 2 tuần, xảy ra ở khoảng 2% trẻ em và 5% thanh thiếu niên. Rối loạn trầm cảm chủ yếu lần đầu tiên có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến hơn là sau tuổi dậy thì. Nguy cơ tái phát cao ở những bệnh nhân có giai đoạn trầm cảm nặng hoặc những người có nhiều giai đoạn trầm cảm. Sự tồn tại của các triệu chứng trầm cảm nhẹ, thậm chí cả trong quá trình thuyên giảm là một yếu tố tiên đoán chắc chắn sự tái phát.

Để chẩn đoán, ≥ 1 trong 2 điều sau đây phải có mặt hầu như mỗi ngày trong cùng thời gian 2 tuần: Cảm thấy buồn hoặc người khác quan sát thấy nỗi buồn (ví dụ như nước mắt) hoặc khó chịu, mất quan tâm hoặc thích thú trong hầu hết các hoạt động (thường được thể hiện như là chán nản sâu sắc). Và phải có ≥ 4 điểm sau: Giảm cân (ở trẻ em, không tăng cân như dự kiến), giảm hoặc tăng cảm giác thèm ăn; Mất ngủ, ngủ nhiều hoặc chứng đau nửa đầu; Sự kích động hoặc chậm chạp tâm thần vận động; Mệt mỏi hoặc mất năng lượng; Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung và lựa chọn; Những suy nghĩ liên tục về cái chết (không chỉ sợ chết) và / hoặc ý tưởng hay kế hoạch tự tử; Cảm giác vô dụng (tức là cảm thấy bị từ chối và không được yêu thương) hoặc tội lỗi quá mức hoặc không thích hợp.

Trầm cảm chủ yếu ở sinh viên là một yếu tố nguy cơ cho sự thất bại trong học tập, lạm dụng chất gây nghiện và hành vi tự tử. Trong khi chán nản, trẻ em và sinh viên có khuynh hướng tụt hậu xa về mặt học thuật và mất đi các mối quan hệ bạn bè quan trọng.

Ngoài trầm cảm sau sinh, giáo sư BV Quân y chỉ ra một loại trầm cảm nguy hiểm khác - Ảnh 4.

Bên cạnh trầm cảm sau sinh, rối loạn trầm cảm ở trẻ học đường và sinh viên rất cần được xã hội quan tâm.

* Rối loạn khí sắc

Chứng ù tai hoặc tức giận dai dẳng kéo dài trong hầu hết thời gian trong ngày nhiều hơn ≥ 1 năm cộng với ≥ 2 trong số những điều sau: Chán ăn hoặc ăn quá nhiều; Mất ngủ, ngủ nhiều hoặc chứng đau nửa đầu;Giảm năng lượng hoặc mệt mỏi; Lòng tự trọng thấp; Kém tập trung; Cảm giác tuyệt vọng; Dễ bị lạm dụng chất.

Các triệu chứng có thể ít hơn nhiều so với các rối loạn trầm cảm chủ yếu, thời gian kéo dài trung bình 5 năm. Một giai đoạn trầm cảm chủ yếu có thể xảy ra trước khi khởi phát hoặc trong năm đầu tiên (tức là, trước khi đạt tiêu chuẩn về thời gian cho rối khí sắc).

Các nguồn thông tin từ cuộc phỏng vấn với trẻ em hoặc sinh viên và thông tin từ cha mẹ và giáo viên, có một số bảng câu hỏi ngắn để sàng lọc. Bệnh sử nên bao gồm các yếu tố gây bệnh như bạo lực gia đình, lạm dụng tình dục và tác dụng phụ của thuốc. Cần tìm hiểu về ý tưởng, hành vi tự tử. Khám và làm xét nghiệm thích hợp để loại trừ các rối loạn khác (như bệnh truyền nhiễm, bệnh tuyến giáp, lạm dụng ma túy) có thể gây ra các triệu chứng tương tự.

Các rối loạn tâm thần khác có thể làm tăng nguy cơ và / hoặc thay đổi giai đoạn các triệu chứng trầm cảm (ví dụ như lo lắng, rối loạn lưỡng cực) phải được xem xét. Một số trẻ bị rối loạn lưỡng cực hoặc tâm thần phân liệt có thể xuất hiện ban đầu với trầm cảm nặng.

Điều trị

Các biện pháp đồng thời dựa vào gia đình và nhà trường. Với trẻ học đường và sinh viên , thường là thuốc chống trầm cảm cộng với liệu pháp tâm lý. Trẻ vị thành niên, liệu pháp tâm lý và tiếp theo có thể cần đến thuốc chống trầm cảm. Có thể cần phải nhập viện trong các giai đoạn cấp tính, đặc biệt khi xác định có ý tưởng và hành vi tự sát.

Đối với thanh thiếu niên, sự kết hợp của liệu pháp tâm lý và thuốc chống trầm cảm thường có hiệu quả cao hơn sử dụng đơn lẻ. Hầu hết các bác sĩ lâm sàng lựa chọn liệu pháp tâm lý ở trẻ nhỏ; tuy nhiên các loại thuốc có thể được sử dụng ở trẻ nhỏ ( fluoxetine có thể được sử dụng ở trẻ em dưới 8 tuổi), đặc biệt khi trầm cảm nặng hoặc chưa phản ứng trước với liệu pháp tâm lý.

Thông thường, một SSRI là lựa chọn đầu tiên khi chỉ định một thuốc chống trầm cảm. Trẻ em nên được giám sát chặt chẽ về sự xuất hiện của các tác dụng phụ về hành vi (ví dụ mất kiểm soát hoặc kích hoạt hành vi), thường xảy ra từ nhẹ đến trung bình. Thông thường, việc giảm liều thuốc hoặc thay đổi một loại thuốc khác sẽ loại bỏ hoặc làm giảm các ảnh hưởng này. Hiếm khi, những ảnh hưởng như vậy là nghiêm trọng. Tác dụng ngoại ý do độc tính, có thể xảy ra với thuốc chống trầm cảm và bất cứ lúc nào trong quá trình điều trị. Do đó, trẻ học đường và sinh viên uống các loại thuốc này phải được theo dõi chặt chẽ.

Cũng như ở người lớn, tái phát trầm cảm là phổ biến. Trẻ học đường và sinh viên nên được điều trị trong ít nhất 1 năm sau khi các triệu chứng đã được thanh toán. Hầu hết các chuyên gia khuyến cáo rằng trẻ em có ≥ 2 giai đoạn trầm cảm cần điều trị lâu dài. Trị liệu tâm lý và các cuộc hẹn định kỳ thăm khám phải được đưa vào kế hoạch điều trị.

Ngoài trầm cảm sau sinh, giáo sư BV Quân y chỉ ra một loại trầm cảm nguy hiểm khác - Ảnh 5.

Trẻ vị thành niên ngày nay phải đối diện với nhiều áp lực do chính bố mẹ, gia đình tạo ra.

Ở Bệnh viện 103 đã gặp một số trẻ lứa tuổi tiểu học và rất nhiều sinh viên bị rối loạn trầm cảm.

Một trẻ trai 9 tuổi ở Hà Nội, thể trạng bình thường, học giỏi, gần đây trẻ hay mệt mỏi, học tập sa sút, có lúc khóc lóc vì một vài lỗi nhỏ hoặc khi bị điểm kém. Tính tình thay đổi, hay cáu gắt bực bội, có lúc kêu đau đầu, ngủ không ngon giấc… bệnh nhân được khám chẩn đoán là trầm cảm và được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm và tâm lý liệu pháp, sau 3 tuần cháu được ra viện về điều trị củng cố. hiện tại cháu khỏe mạnh, vui vẻ trở lại và học tốt.

Nhiều sinh viên vì học tập sa sút, chán nản, bi quan, mệt mỏi, ăn ngủ kém, tự ti, mặc cảm, phải vào bệnh viện 103 điều trị với chẩn đoán rối loạn trầm cảm. Các yếu tố liên quan như học tập căng thẳng, tình yêu bị đổ vỡ, chơi game quá nhiều, có em chơi lô đề, cá cược bóng đá bi thua…

Bệnh nhân được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm, tâm lý liệu pháp, có khi con sử dụng liệu pháp sốc điện nếu có biểu hiện từ chối ăn hoặc có ý tưởng hoặc có hành vi tự sát…sau khi ra viện bệnh nhân cần điều trị củng cố 6-9 tháng hoặc hơn. Nhìn chung sức khỏe và khả năng học tập phục hồi tốt.

Mọi người đều có nguy cơ mắc rối loạn trầm cảm, nguy cơ cao ở những người có nhiều áp lực trong công việc, học tập, trong cuộc sống; người mắc bệnh mạn tính hoặc bệnh hiểm nghèo; người lạm dụng hoặc nghiện chất, nghiện hành vi như game, cờ bạc. Đạc biệt ở người có tiền sử gia đình có người bị các vấn đề sức khỏe tâm thần như trầm cảm, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, tâm thần phân liệt…

Khi trong gia đình có người thay đổi tính tình, trở nên ít nói, ít hoạt động, kêu ca phàn nàn, ăn kém ngủ ít hoặc nhieeufhay có các triệu chứng cơ thể mà không tìm được nguyên nhân…thì cần cảnh giác với rối loạn trầm cảm.

Dự phòng

Cần phải nuôi dưỡng trẻ phát triển tốt, có thể lực và nhân cách tốt, có nghị lực và có ý chí phấn đấu. tránh các căng thẳng, chấn thương tâm lý, các trò chơi và sở thích không lành mạnh. Gia đình hòa thuận, thương yêu chăm sóc lẫn nhau. Khi trẻ có bất thường cần được khám và tư vấn sớm.

* Tiêu đề bài viết do tòa soạn đặt lại