Đường về “xóm tận khổ”
Chúng tôi tìm về xóm 4, 5, 6 (thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam) vào một ngày mưa rả rích, cảnh vật ảm đạm bao trùm lên ngôi làng ngay cạnh chân núi Mác càng khiến cho câu chuyện trở nên kỳ bí, ám ảnh. Nhiều người dân nơi đây vẫn hiểu vì sao ngôi làng này lại có nhiều người điên đến thế. Một người dân chia sẻ với chúng tôi: “Xóm này ghê lắm, có đến gần hai chục người bị điên, các gia đình ở liền kề nhau, có khi ở một nhà có đến hai thế hệ (mẹ và con gái) cùng bị điên”.
Ông Nguyễn Văn Bình (xóm 5) thì than vãn: “Xóm này người điên thì nhiều lắm. Có khi ra đường là bắt gặp người điên ấy chứ”. Rồi ông nói với vẻ buồn bã: “Thật tội nghiệp, nhiều gia đình có đến 3-4 người điên, cuộc sống của họ đắng cay, cơ cực lắm!”.
Nằm ngay cạnh dưới chân núi Mác, ngôi nhà của vợ chồng bà Nguyễn Thị Hà luôn im lìm chặt cửa để đề phòng đứa con gái Bùi Thị Thảo (SN 1992) có thể lao bạt mạng ra đường bất cứ lúc nào. Bà Hà chia sẻ: “Thảo là đứa con gái út của tôi, từ nhỏ tới lớn cháu học rất giỏi. Nhưng không hiểu sao, năm lên lớp 10, sau một trận ốm thập tử nhất sinh, cháu nó bắt đầu có triệu chứng không bình thường”. Nói rồi bà bật khóc tức tưởi, đứa con gái thì ngây ngây, ngô ngô hết cười rồi lại la hét làm cho câu chuyện giữa chúng tôi và gia đình bị đứt quãng.
Ngay sát nhà bà Hà là trường hợp mẹ con bà Nguyễn Thị Loan. Theo bà Hà thì mẹ con bà Loan đều có triệu chứng không bình thường, cuộc sống cũng đắng cay trăm bề. Trong ngôi nhà xập xệ, đứa con gái Dương Thị Nụ bị cách ly, liên tục đi đi, lại lại, hỏi gì cũng không nói, thi thoảng lại nhảy múa rồi tự vỗ tay. Sau một hồi hỏi chuyện không thành, bất ngờ một người đàn bà trạc tuổi gần 60 từ ngoài vườn đi vào chửi bới rồi đuổi chúng tôi ra khỏi nhà, hỏi ra mới biết đó là bà Loan. Khi con gái bị điên một thời gian, bà cũng trở nên dữ dằn, cứ nhìn thấy người lạ vào nhà là bà chửi bới và đuổi ra khỏi nhà. Có lần bà lang thang ra chợ, một người thương tình cho dăm lạng thịt, bà không nấu mà cứ để trong nồi, một tuần sau bà mang ra hai mẹ con cùng ăn, người con trai cả phát hiện ra xoong thịt toàn là giòi bọ.
Đường vào “xóm tận khổ” có nhiều gia đình rơi vào hoàn cảnh éo le, cơ cực như nhà ông Êm, nhà ông Tý, nhà bà Loan... Đến giờ, vẫn chưa ai trả lời rõ ràng được rằng vì sao nơi đây lại có quá nhiều mảnh đời bất hạnh như vậy. Từ những tiếng than khóc lúc nửa đêm...
Chúng tôi đã tìm đến một số gia đình không may có người bị điên ở “xóm tận khổ”. Đây là xóm mới thành lập, hầu hết đều là người tứ xứ về khu nông trường Ba Sao để xây dựng khu kinh tế mới.
Khổ tâm nhất là gia đình bà Bình có tới 3 người con bị điên, họ điên đến thảm khốc. Trong khi gia đình vất vả đi tìm khắp nơi không thấy, mấy ngày sau ra vườn, bà Bình mới giật mình phát hiện ra đứa con gái út ngồi lù lù dưới gốc cây, bần thần đội chiếc lá khoai lên đầu. Còn cô chị đang ngồi trong nhà thì lao ngay ra đường như con thiêu thân, vấp phải hòn đá lăn ra đường khóc lóc thảm thiết.
Nhiều đêm liền, bà Bình không dám chợp mắt ngủ vì sợ ba đứa con điên của mình “choang” nhau hoặc lao bạt mạng ra bóng tối. Nhiều lần bà bị chúng ném cả bát cơm vào trán, tím tái cả mặt mày hoặc cầm tóc lôi xềnh xệch từ trong nhà ra ngoài sân. Mỗi lần như thế bà chỉ biết ngồi khóc thương cho ba đứa con ngây dại, điên khùng đang tự nhổ hàng nụm tóc trên đầu rồi lại cười ha hả như ma nhập...
Trong căn nhà cấp 4 cũ kỹ ở xóm 5, người mẹ già gần tuổi thất thập cổ lai hy ứa nước mắt khi nhắc đến 3 đứa con ngây ngây, dại dại của mình. Bà Bình kể, bà lập gia đình ở trên Thái Nguyên, khi đang mang bầu bà vẫn phải ngày đeo bình thuốc lên vai, phun mấy mẫu chè, đêm đến lại vò chè đến tận khuya mới được nghỉ. Khi sinh đứa con gái đầu lòng ra bụ bẫm, khỏe mạnh, nhưng càng lớn đứa con gái cả càng có biểu hiện về căn bệnh thần kinh.
Mấy năm sau, hai vợ chồng bà sinh tiếp người con thứ hai nhưng số phận đau đớn một lần nữa lại đến với gia đình bà. Khi được 3 tuổi, đứa con gái thứ hai cứ ngây ngô, ngồi một chỗ, ăn nói không bình thường. Vì lúc đó khó khăn mọi bề nên không đủ điều kiện đưa con đi khám chữa bệnh.
Cuộc sống cứ thế dần trôi đi, cứ ngỡ cô con gái thứ tư sinh ra không có biểu hiện như hai cô chị thì đã là hạnh phúc lớn. Ai dè cô bé lớn lên quanh năm ốm yếu, quặt quẹo không làm được việc gì, thi thoảng lại trốn nhà đi biệt tăm hàng tuần mới chịu về nhà...
Năm 1973, giặc Mỹ ném bom tàn phá khu Gang thép Thái Nguyên, gia đình bà phải tản cư về Nông trường Ba Sao (Kim Bảng - Hà Nam), được cấp đất, hai vợ chồng cố gắng chắt chiu làm hai gian nhà, rồi ở đó cho đến tận bây giờ. Cũng chính tại mảnh đất nơi đây những con sóng đau thương, cứ dồn dập đè lên tấm thân mỏng manh, tàn tạ của bà Bình.
... đến những chuyện rùng rợn có thật
Sau một đêm mưa tầm tã, căn bệnh thần kinh tái phát, cô con gái cả của bà Bình cứ ngồi một chỗ, hết cười lại khóc. Đứa thứ hai thi thoảng cào cấu đầu óc, lăn ra đất, xé quần, xé áo rồi lại vơ hàng nụm vải cho vào mồm nhai ngấu nghiến. Đứa nhỏ hơn có lúc lại trốn nhà biệt tăm, bà Bình phải đi tìm, vất vả lắm mới đưa được nó từ trên núi về. Đêm nào bà cũng khóc trắng đêm, bà luôn tự hỏi trước mình ăn ở thế nào mà kiếp này giời đày các đứa con của bà bi thương đến vậy?
Sinh được 5 người con gái thì có tới 3 người con bị mắc tâm thần phân liệt nửa người. Hai vợ chồng cố gắng chạy vạy đưa con đi chữa trị, hết viện Cao Đà, Trâu Qùy, Thường Tín... rồi lặn lội tìm đến những thầy lang được mọi người mách mà căn bệnh của các con bà vẫn không thuyên giảm.
Năm 1996, chồng bà Bình ốm đau rồi qua đời, để lại mình bà với 3 đứa con điên đáng thương của mình. Mỗi lần đi làm đồi là bà lại đóng chặt cửa không để chúng chạy ra đường, nhưng khi về đến nhà thì đứa nào đứa nấy đều trần như nhộng, từ đầu đến chân mặt mũi bẩn thỉu, người toàn mùi xú uế. Bà lại cõng từng đứa ra giếng tắm rửa, thay đồ rồi lại lo cho ba đứa ăn.
Nhiều lúc buồn hỏi chuyện con cho vui mà chúng cứ ngây dại nhìn bà như nhìn người ngoài hành tinh rồi lại cười khà khà. Nhiều đêm bà mất ngủ vì 3 đứa con thần trí bất thường không chịu ngủ, dỗ dành chán chúng mới chịu đi nằm, vừa chợp mắt được một lúc thì bà lại choàng dậy vì những tiếng xoong, chảo va vào nhau... Xuống đến nơi vừa can được hai đứa ra thì cô chị đập cả cái chảo vào đầu, khiến bà ngã dấp dúi xuống đất.
Đánh nhau chán rồi chúng lại lấy gương ra soi mặt để nhổ lông mày, có lần hai chị em nhổ tóc cho nhau hói cả đầu. Nhưng những lần như thế chưa thấm tháp gì. Sợ nhất là những lần đang bón cơm cho con thì một trong ba đứa cầm ghế gỗ đánh vào đầu bà tứa cả máu mặt ra.
Cho đến giờ bà vẫn thấy run khi kể về những lần bị con đánh vô cớ: “Một lần tôi đang lúi húi nấu cơm trong bếp thì đứa con gái cả cầm kéo lao vào tay cầm tóc lôi tôi xềnh xệch từ bếp ra sân, tay kia cầm kéo đâm vài ba nhát vào lưng, tôi đau đớn kêu cứu, may mà có người hàng xóm phát hiện ra nếu không thì...”.
Kể đến đây bà lại lặng nhìn, thương xót cô con gái cả rụng hết cả hàm răng vì tự lao đầu vào tường. Nhìn con vừa giận vừa thương, không biết làm gì hơn ngoài việc than trách số phận đã đày ải gia đình bà rơi vào cảnh bi thương, ai oán.
Ký ức kinh hoàng của bà mẹ có con bị biệt giam trong chuồng lợn
Trong số những người bị điên nơi đây thì trường hợp gia đình bà Phạm Thị Nhẫn có con trai là Vũ Xuân Việt là đáng thương nhất, khiến cho nhiều người cảm thương đến rớt nước mắt. Đứa con trai của bà đang khỏe mạnh bỗng dưng có những biểu hiện bất thường, gia đình chạy chữa thuốc men nhưng bệnh tình của Việt không những không giảm mà còn nặng hơn.
Việt càng ngày càng trở nên “hung dữ” và bạo lực. Cũng chính đứa con trai ấy đã từng bóp cổ bà Nhẫn hoặc đấm thùm thụp vào mặt chị gái và cầm dao “săn” cha của mình. Bà Nhẫn vẫn bàng hoàng khi kể lại ký ức kinh hoàng cách đây hơn bốn chục năm: “Khi tôi đang phơi ngô ngoài sân thì nó (ý nói anh Vũ Xuân Việt - PV) đi từ đâu về, mặt hằm hằm, chưa kịp phản kháng gì thì nó lao vào rồi bóp lấy, bóp để cái cổ của tôi. Tôi hốt hoảng kêu cứu, thì nó đẩy tôi xuống đất, dùng hết sức bóp mạnh hơn... Khi tôi gần như không thể thở được nữa thì hàng xóm láng giềng chạy sang đẩy nó ra, đỡ tôi dậy. Nó bị đẩy xuống đất ngã dúi dụi, liền cầm que củi, lao vào ông hàng xóm, ông ấy hốt hoảng chạy thì nó hùng hục đuổi theo. Cũng may có nhiều trai tráng khỏe mạnh ôm nó, nếu không thì...”.
Kể đến đây bà chỉ tay ra phía hiên nhà: “Cũng từ ngày ấy gia đình tôi nhốt nó vào đấy, nhỡ đâu nó ra ngoài hại người thì khổ lắm”.
Theo bà Nhẫn ra nơi anh Việt bị giam giữ, gần đến nơi đã thấy xộc lên mũi mùi khẳn, khai thối. Chỗ Việt ở nằm ngay sát giếng, cạnh chuồng gà mà ông bà Nhẫn xây lên với mục đích để nuôi lợn, nhưng vì không có nơi đảm bảo cho anh Việt không thoát ra ngoài nên bà Nhẫn sử dụng luôn. Cái “chuồng” ấy rộng 5, 6 mét vuông, trong đó được dựng nên một cái bục bằng xi măng đủ để cho anh Việt nằm ngủ. Cửa chuồng được làm bằng sắt to, đan ô vuông vô cùng vững chắc.
Anh Việt mặc mỗi chiếc áo lửng, để truồng phía dưới... Suốt buổi hỏi chuyện về Việt, anh vẫn cúi gằm mặt không ngước lên một lần nào. Cho ăn thì ăn, chứ cho quần áo mặc thì anh không thèm, cứ ngồi lì một chỗ, cặm cụi nhìn xuống nền đất ướt, gọi cũng không thưa.
Bà Nhẫn thở dài: “Từ ngày chồng tôi mất đi, con cái dựng vợ, gả chồng hết tôi càng thấy sợ hơn, nhưng nghĩ nó là con mình nên cố gắng chăm bẵm cho nó. Tôi không dám vào trong vì sợ...”. Nói đến đây bà Nhẫn bật khóc: “Tôi thương nó lắm, nhưng số mệnh nó đã thế rồi...”.
Ngay cả đến khi tắm cho anh Việt, bà Nhẫn cũng chỉ dám đứng ngoài cửa “chuồng”, cầm vòi nước phụt vào trong. Việt sinh hoạt tại chỗ, phóng uế hết ra những cái chăn, bốc mùi khai thối nhưng bà cũng không dám mở cửa chuồng vào, vì sợ anh lại chạy ra ngoài gây nguy hiểm cho bà con làng xóm. Bao nhiêu năm giam con giữa 4 bức tường, đứng ngoài song sắt, bà Nhẫn không đành lòng, thế nhưng bà bảo bà còn cách gì khác đây...
50 năm quặn thắt từng khúc ruột
Tôi vẫn bị cám cảnh bởi tấm thân còm cõi của bà Bình vật lộn cùng những đứa con điên của mình. Trong suốt buổi nói chuyện, bà Bình nhắc đi nhắc lại một điều: “Hơn 40 năm nay, tôi chỉ có một điều ước là ba đứa con ngây dại kia được làm người khỏe mạnh bình thường, dù chỉ một ngày cũng được”.
Dẫu cuộc sống đắng cay, cơ cực là vậy nhưng bà vẫn gắng chăm bẵm không để cho những đứa con của mình bị đói, bị rách rưới, bẩn thỉu. Mỗi khi bị một trong ba đứa con đánh bất chợt, có lần cả ba đứa túm vào đánh làm bà đau hết mình mẩy, bà chỉ biết câm nín chịu đựng. Biết làm sao được khi người đánh lại là những đứa con do chính mình sinh ra.
Hơn 40 năm quặn thắt từng khúc ruột mà bà vẫn kiên cường cùng con chống chọi lại căn bệnh “giời đày”. Với bà nỗi đau không thể kể hết, nhưng nghị lực vươn lên nghèo đói, bất hạnh, chăm bẵm cho từng đứa con có lớn mà không có khôn nghe đau đớn đến nhói lòng.
Nhìn gia cảnh vợ chồng ông Lại Văn Tiếp và bà Hoàng Thị Sen khiến nhiều người khó cầm được nước mắt. Bà Sen năm nay đã qua tuổi 60 nhưng lúc nào cũng phải bón từng thìa cơm cho đứa con gái đã ngoài 30. Ông Tiếp chia sẻ: Thời xưa, chiến tranh lửa đạn, ông không sờn lòng, sợ hãi, vậy mà giờ nhìn con không sao cầm được nước mắt. Đứa con gái Lại Thị Hằng suốt ngày ngồi rên rỉ, ai oán nên hai vợ chồng thay phiên nhau ngồi ôm con để xoa dịu nỗi đau cho Hằng khỏi tức giận.
Không chỉ cuộc sống cơ cực, mà khi đến đây chúng tôi còn chứng kiến những phận đời buồn thảm, tủi hờn. Những phận già nuôi những đứa con điên dại, không bình thường. Với họ, không nỗi đau nào có thể sánh được bằng chuyện hàng ngày chứng kiến những đứa con của mình vật vã, rên rỉ... trong đớn đau.
Khát khao làm người
Chúng tôi tìm đến nhà bà Lê Thị Kiệm - Bí thư xóm 5 để tìm hiểu thêm về những hiện tượng bất thường ở xóm nghèo này. Bà Kiệm giãi bày: Cuộc sống gia đình họ cơ cực lắm! Ở cái xóm nhỏ tí tẹo mà người điên khá nhiều. Già có, trẻ có, trung trung tuổi cũng có. Nguyên nhân chính là do ngày xưa cha mẹ đi bộ đội, thanh niên xung phong, có lẽ do nhiễm chất độc màu da cam. Còn một số trường hợp thì chúng tôi không được rõ nguyên nhân.
Vậy nhưng nguyên nhân gì thì cũng mới chỉ là suy đoán mà thôi, chứ ngót nghét mấy chục năm trôi qua người dân dưới chân núi Mác vẫn không hề tường tận lí do vì sao con cái, gia đình họ lại điên dại đến vậy. Người thì cho rằng ma ám, người thì bảo con cái học hành căng thẳng, người lại bảo do chiến tranh nhưng sự thật rõ mười mươi như thế nào cũng chẳng ai dám chắc.
Cuộc sống các gia đình có con không bình thường quả rất vất vả. Dù chính quyền địa phương đã có những nghĩa cử như động viên, giúp đỡ nhưng cuộc sống khó khăn phía trước là cả một chặng đường dài.
Chia tay xóm nhỏ mà nhiều nỗi bất hạnh này tôi vẫn băn khoăn một điều rằng: Những mảnh đời tận khổ ở “xóm tận khổ” này rồi sẽ như thế nào? Nước mắt những người thân, đặc biệt là những người mẹ như bà Bình, bà Nhẫn... sẽ lại rơi hàng đêm, nỗi khát khao cho con mình được làm “người” dù chỉ một ngày đến bao giờ mới trở thành hiện thực?