Gan nhiễm mỡ, tăng mỡ máu, tỷ lệ mỡ cao… là những cụm từ chúng ta thường nghe sau một đợt kiểm tra sức khoẻ.
Một trong những cách đơn giản giúp giảm nguy cơ tăng mỡ máu là chế biến thức ăn dưới dạng hấp, luộc, kho,... (ảnh chỉ mang tính minh hoạ). Ảnh: Trí Dũng |
Có thể nói cứ ba người là có một gặp rắc rối với mỡ trong máu. Không đợi đến tuổi trung niên, cũng không chờ đến lúc thừa cân béo phì, nạn “rối loạn lipit máu” đã xuất hiện ở cả những người trẻ có vóc dáng bình thường.
Mỡ trong máu tăng: rất đáng sợ
Tăng mỡ trong máu còn gọi là tình trạng rối loạn lipit máu. Các loại lipit trong cơ thể bao gồm: triglyceride, phospholipid và cholesterol. Có 10% triglyceride được tổng hợp ở gan và mô mỡ, 90% còn lại có nguồn gốc từ thức ăn. Cholesterol có hai nguồn gốc: 30% ngoại sinh từ các thức ăn có nguồn gốc động vật và 70% nội sinh do gan tổng hợp.
Cholesterol trong máu bao gồm: VLDL, IDL, LDL và HDL, trong đó chỉ cần quan tâm hai loại chính là LDL và HDL. LDL-cholesterol cung cấp cholesterol cho các mô, khi LDL tăng cao sẽ làm tăng nguy cơ xơ vữa mạch, do đó LDL được xem là cholesterol xấu. HDL-cholesterol đóng vai trò chính trong chuyên chở cholesterol thặng dư ra khỏi mạch máu, do đó được xem là cholesterol tốt, có tác dụng bảo vệ tim mạch.
Những mảng cholesterol khi lững lờ trôi trong mạch máu của chúng ta, gặp nơi thích hợp sẽ lắng đọng, bám vào thành của các mạch máu. Những mảng xơ vữa này ngày càng nhiều làm cho thành mạch máu trở nên cứng, giòn, mất tính đàn hồi mềm dẻo và gây hẹp lòng mạch máu, làm dòng máu chảy yếu, giảm nuôi dưỡng các bộ phận cơ thể, ảnh hưởng đến hoạt động chức năng của các cơ quan.
Quan trọng nhất là mạch máu não, tim, thận… bị thiếu máu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ. Máu chảy yếu làm tim phải cố gắng co bóp để thắng sức cản của mạch máu bị xơ vữa, lâu dần có thể dẫn đến cao huyết áp và suy tim.
Mạch máu não bị xơ vữa trở nên giòn và dễ vỡ trong cơn cao huyết áp, cũng dễ bị tắc nghẽn bởi mảng xơ vữa làm não thiếu máu nuôi, gây những cơn tai biến bất kỳ. Mạch vành nuôi tim nếu bị xơ vữa sẽ gây những cơn thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim rất dễ dẫn đến tử vong. Ngoài ra, mỡ máu cao cũng là một triệu chứng trong hội chứng chuyển hoá với nguy cơ cao huyết áp, béo bụng và tăng đường huyết (tiểu đường).
Làm gì khi bị rối loạn mỡ máu?
Trước tiên, cần đạt và duy trì cân nặng lý tưởng: BMI 20 – 22 kg/m2 (BMI = cân nặng (kg)/chiều cao2 (m)); ăn mỡ (lipit), cholesterol dưới 200mg/ngày. Trong tự nhiên, lipit có nhiều loại: lipit bão hoà (mỡ động vật, dầu dừa, dầu cọ...), lipit không no một nối đôi (dầu ôliu, mỡ cá, hải sản, tảo...), lipit không no nhiều nối đôi (dầu bắp, dầu hạt bông, dầu đậu nành, dầu mè…), người tăng mỡ máu nên hạn chế lipit bão hoà. Đặc biệt, người thừa cân béo phì, cao huyết áp, tăng mỡ máu… nên chú ý lượng mỡ trong khẩu phần vì lipit cung cấp nhiều năng lượng.
Có một số cách đơn giản giúp làm giảm lipit và cholesterol trong khẩu phần: ăn thịt nạc, bỏ mỡ, bỏ da; không ăn đồ lòng phủ tạng, óc; lòng đỏ trứng ăn hai cái/tuần. Uống sữa tách béo (không béo, sữa gầy). Hạn chế ăn thức ăn chiên, xào; chế biến thức ăn dưới dạng hấp, luộc, kho, nướng. Dùng ít bơ, margarine, dầu. Tránh ăn thức ăn mua tại nhà hàng. Đọc kỹ thành phần thức ăn bán sẵn. Tăng khẩu phần trái cây, rau củ. Hạn chế rượu (chỉ nên uống một lon bia/ngày hay 30ml rượu vang), tuyệt đối cữ rượu nếu có tăng triglyceride.
Ngoài ra, cần tăng cường vận động, tập thể dục 30 phút/ngày, ít nhất bốn lần/tuần. Nên đi bộ khoảng 30 – 45 phút/ngày.
Theo BS Đào Thị Yến Thuỷ
Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM
SGTT