Theo trình báo của bà V.T.C. (SN 1944, ở thị xã Nghi Sơn, Thanh Hóa) cho biết, thời gian gần đây, bà thấy cháu ngoại của mình là Đ.M.A. (SN 2006, là học sinh lớp 9 của một trường THCS trên địa bàn thị xã Nghi Sơn) có nhiều biểu hiện bất thường nên đã đưa đi khám. Sau khi khám, gia đình hốt hoảng phát hiện cháu A đã mang thai gần 15 tuần.
Khi hỏi cháu A thì được biết, trong thời gian nghỉ dịch COVID-19 (khoảng tháng 5/2020), một số bạn trong lớp có rủ đi tham gia các hoạt động của lớp. Tuy nhiên, sau đó A đã được đưa đến nhà vài người bạn cùng lớp. Tại đây, A bị ép quan hệ với một bạn nam, dẫn tới có thai.
Được biết, cháu A có hoàn cảnh rất đáng thương, mồ côi cả cha lẫn mẹ (bố cháu đã mất cách đây gần 10 năm, mẹ cháu mới mất cách đây 6 năm do mắc bệnh hiểm nghèo). Từ đó, A đã được bà ngoại đưa về nuôi dưỡng.
Bước đầu cơ quan chức năng xác định nghi phạm là bạn học cùng trường và sinh năm 2006. Dư luận băn khoăn về chế tài xử lý nghi phạm "trẻ con" này như thế nào? Chia sẻ về vụ việc này, luật sư Nguyễn Thu Anh (Đoàn luật sư Hà Nội) cho rằng, thời gian gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng đã phản ánh rất nhiều vụ việc xâm hại tình dục trẻ em ở nhiều địa phương, nhiều vụ việc chưa được xử lý hoặc xử lý không nghiêm minh gây nên bức xúc trong dư luận xã hội. Hiện tình hình tội phạm xâm hại tình dục trẻ em có xu hướng ngày càng gia tăng, gây tác động xấu cho xã hội.
Đây là tội phạm nguy hiểm gây ảnh hưởng tâm sinh lý rất lớn cho trẻ em là nạn nhân bị xâm hại tình dục. Trẻ em là mầm non, là tương lai của đất nước, cần phải được sống trong môi trường giáo dục, xã hội lành mạnh để phát triển toàn diện. Vì vậy, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em cần được quan tâm hơn nữa, cần tăng cường các biện pháp nhằm phát hiện nhanh chóng, chính xác và điều tra xử lý nghiêm minh các loại tội phạm xâm hại tình dục trẻ em.
Theo đó, khái niệm xâm hại tình dục trẻ em, có thể được hiểu một cách chung nhất là sự xâm phạm, động chạm đến quyền tự do, đến nhu cầu phát triển tự nhiên của trẻ em về quan hệ tính giao, xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của trẻ em.
"Qua thông tin trên báo chí cho thấy, nghi phạm sinh năm 2006 nên cần phải xác định rõ đối tượng đã đủ 14 tuổi hay chưa. Nếu đủ 14 tuổi trở lên, nghi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" được quy định tại Điều 142 (BLHS 2015) với tình tiết tăng nặng là "làm nạn nhân có thai".
Trong trường hợp nghi phạm chưa đủ 14 tuổi thì sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh trên. Bởi lẽ, căn cứ khoản 2 (Điều 12, luật đã viện dẫn) quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150… của Bộ luật này", luật sư Anh nói.
Việc bị xâm hại tình dục sẽ để lại những ám ảnh dai dẳng trong cuộc đời các bé (ảnh minh họa)
Giải thích vì sao người chưa đủ 14 tuổi lại không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh mà họ gây ra, luật sư Anh cho rằng, do người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ họ chưa phát triển đầy đủ nên các em chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Tuy không bị xử lý hình sự nhưng nghi phạm vẫn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại. Theo đó, người thực hiện hành vi phạm tội sẽ phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm cho người bị hại. Cụ thể:
Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Theo quy định tại Điều 590 (Bộ luật Dân sự 2015) thì thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị;
Người xâm phạm sức khỏe của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm: Theo quy định tại Điều 592 (Bộ luật Dân sự 2015) thì thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác bị xâm phạm bao gồm chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
"Theo quy định về bồi thường thiệt hại cho người dưới 15 tuổi sẽ do cha mẹ, người giám hộ thực hiện. Điều này có nghĩa, trong trường hợp trẻ đã gây thiệt hại cho tài sản của người khác, trách nhiệm bồi thường thuộc về người giám hộ của trẻ (bố, mẹ,…). Người bị thiệt hại có thể yêu cầu bố, mẹ của trẻ bồi thường phần tiền còn lại. Trường hợp người giám hộ của trẻ không bồi thường, người bị thiệt hại có thể tiến hành khởi kiện dân sự yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại tại Tòa án", luật sư Anh phân tích.
Điều 142. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
.........
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
b) Làm nạn nhân có thai;