Tại khoản 1 Điều 15 Luật Hộ tịch 2014 quy định trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho con.

Trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông, bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.

Người đi đăng ký khai sinh nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy chứng sinh cho cơ quan đăng ký hộ tịch.

Trường hợp không có giấy chứng sinh thì nộp văn bản của người làm chứng xác nhận về việc sinh. Nếu không có người làm chứng thì phải có giấy cam đoan về việc sinh. Trường hợp khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi phải có biên bản xác nhận việc trẻ bị bỏ rơi do cơ quan có thẩm quyền lập. Trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh ra do mang thai hộ phải có văn bản chứng minh việc mang thai hộ theo quy định pháp luật.

Theo khoản 1 Điều 27 Nghị định 110/2013, người có trách nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em mà không thực hiện việc đăng ký đúng thời hạn quy định sẽ bị phạt cảnh cáo.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 37 Nghị định 82/2020/NĐ-CP về hành vi vi phạm đăng ký khai sinh không còn mức phạt cảnh cáo đối với hành vi đăng ký khai sinh trễ hạn. Nghị định này có hiệu lực từ ngày 1/9/2020.

Ngoài việc bỏ quy định phạt người đăng ký khai sinh muộn, Nghị định 82/2020/NĐ-CP cũng tăng mức phạt so với trước đối với các hành vi vi phạm quy định về đăng ký khai sinh.

Phạt tiền từ 1 triệu đến 3 triệu đồng đối với hành vi tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung giấy tờ do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp để làm thủ tục đăng ký khai sinh (Hiện nay, hành vi vi phạm này chỉ bị phạt tiền từ 300.000 đến 500.000 đồng).

Phạt tiền từ 3 triệu đến 5 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau: Cam đoan, làm chứng sai sự thật về việc sinh; cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về nội dung khai sinh; sử dụng giấy tờ của người khác để làm thủ tục đăng ký khai sinh (Hiện nay, mức phạt tiền với hành vi trên là từ 1 triệu đến 3 triệu đồng).

Về biện pháp khắc phục hậu quả, kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy khai sinh đã cấp do có hành vi vi phạm quy định; giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung quy định.