GS Nguyễn Văn Tuấn - Giáo sư Đại học New South Wales (Australia) cho biết để được đăng bài trên tạo chí New England Journal of Medicine (NEJM) rất khó vì các công trình nghiên cứu rất chọn lọc, chỉ khoảng 1-5% bài báo nộp được chấp nhận cho công bố.

Nghiên cứu về thụ tinh ống nghiệm của nhóm bác sĩ Việt Nam gồm có 9 người: Vương Thị Ngọc Lan, Bộ môn Phụ Sản (Trường ĐH Y Dược TP.HCM), Đặng Quang Vinh (BV Mỹ Đức), Hồ Mạnh Tường (BV Mỹ Đức), Huỳnh Gia Bảo (BV Mỹ Đức), Hà Tấn Đức (BV Đa khoa T.Ư Cần Thơ), Phạm Dương Toàn (BV Mỹ Đức), Nguyễn Khánh Linh (BV Mỹ Đức), Robert Norman (ĐH Adelaide, Úc), Ben Mol (Đại học Adelaide, Úc) đã được tạp chí y khoa lớn nhất thế giới đăng ngày 11/1/2018.

Theo GS Nguyễn Văn Tuấn - chuyên gia xét duyệt cho NEJM và người giúp cho nhóm nghiên cứu vào giai đoạn cuối cho biết, công trình nghiên cứu của nhóm tác giả trên đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử cả về nội dung nghiên cứu và ý nghĩa cho y học Việt Nam.

Ý tưởng nghiên cứu chỉ để trả lời một câu hỏi đơn giản nhưng quan trọng: ở phụ nữ vô sinh, đông lạnh phôi và chuyển phôi tươi có kết quả thụ tinh như nhau?

Tuy nhiên, trong y khoa, câu hỏi đơn giản thường là câu hỏi khó trả lời nhất.

Câu trả lời có giá trị khoa học cao nhất là làm nghiên cứu theo mô hình lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial, RCT), rất khó thực hiện vì đòi hỏi việc chọn bệnh nhân, phương pháp rất chặt chẽ và thời gian.

Theo mô hình RCT, bệnh nhân được chia thành 2 nhóm một cách ngẫu nhiên, và họ được theo dõi một thời gian. Kết quả cho thấy tỉ lệ thụ tinh của nhóm phôi đông lạnh và chuyển phôi tươi như nhau.

Vì sao “Kinh thánh” y khoa thế giới đăng công trình nghiên cứu của bác sĩ Việt? - Ảnh 1.

GS Nguyễn Văn Tuấn

Ý nghĩa lớn của câu trả lời này là bác sĩ có thể trữ phôi một thời gian chứ không cần phải chuyển phôi tươi.

Câu trả lời có tác động và làm thay đổi thực hành về hỗ trợ sinh sản trên toàn thế giới. Công trình có thể xem đó là một sự đột phá (breakthrough). Đó chính là lí do tại sao NEJM chấp nhận cho công bố nghiên cứu.

“Trong giới y khoa, tập san NEJM được xem như là kinh thánh. Tầm ảnh hưởng của NEJM còn cao hơn cả hai tập san khoa học lừng danh Nature và Science. Được đăng bài trên tập san này là niềm mơ ước của các nhà khoa học.

Các nhà khoa học đẳng cấp Nobel hay đăng bài trên NEJM, nhưng chính họ cũng thường hay bị NEJM từ chối đăng bài. Do đó, được công bố ở đây rất khó vì nghiên cứu rất chọn lọc, và số bài báo được chấp nhận rất thấp.

Trong quá khứ một số nhà khoa học Việt Nam cũng có bài trên NEJM, nhưng họ là người ở nước ngoài, hay làm ở trong nước nhưng do người nước ngoài chủ trì” – GS Tuấn nói.

Công trình của bác sĩ Tường, bác sĩ Lan cùng các cộng sự là công trình "thuần Việt Nam", vì do người Việt đề xuất ý tưởng và do người Việt chủ trì. Công trình này thể hiện lần đầu tiên một nghiên cứu RCT 'thuần Việt Nam' được công bố trên một tập san y khoa số 1 trên thế giới.

Chính vì thế, với bài báo này GS Tuấn đánh giá đây là một bước ngoặc lịch sử cho nghiên cứu y học ở trong nước.

Công trình đăng tải cũng là thành quả này là một minh chứng hùng hồn cho thấy Việt Nam có thể làm những nghiên cứu với phẩm chất khoa học rất cao.

Trong quá khứ nhiều người cho rằng các nghiên cứu ở Việt Nam khó hay không thể đăng được trên các tập san như NEJM, nhưng công trình của Bs.Lan và Bs. Tường cho thấy quan điểm này không có cơ sở.

“Không cần phải có ngân sách cỡ "cấp Nhà nước" để có những công trình đẳng cấp quốc tế. Cái cần là ý tưởng nghiên cứu tốt, câu hỏi nghiên cứu quan trọng, và phương pháp nghiên cứu đúng chuẩn mực khoa học. Hãy quên đi những đề tài tủn mủn "trong cái hộp".

Hãy quên đi những quan tâm vụn vặt và theo lề thói cũ. Nên suy nghĩ đến câu hỏi lớn có tác động đến cả thế giới và làm thay đổi nhận thức của chuyên ngành. Nên suy nghĩ về cách tiếp cận sáng suốt và độc đáo. Nên suy nghĩ đến phương pháp hiện đại và chặt chẽ.

Hi vọng rằng nghiên cứu này sẽ tạo ra một nguồn cảm hứng mới cho y học nước nhà để có những đóng góp lớn cho thế giới trong tương lai” – GS Tuấn nhấn mạnh.