“Nghề kiếm tiền nhờ cái mũi”

Hơn 1 giờ sáng, khi thành phố đang chìm trong giấc ngủ thì ở một góc nhỏ phía Đông, cạnh cảng cá Quy Nhơn (phường Hải Cảng, TP.Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) không khí lại nhộn nhịp, tấp nập. Dưới ánh đèn vàng vọt, tàu thuyền lần lượt cập bờ, mang về những mẻ cá tôm nặng trĩu khoang thuyền. Trên bờ, người xe tấp nập vận chuyển những mẻ cá lớn, mang theo cái mùi tanh nồng đặc trưng, người xa lạ lần đầu đến đây chỉ cần thoáng ngửi qua thôi cũng đủ “giã từ” cơn buồn ngủ.

Thế nhưng, cái mùi nồng nặc này lại là mùi quen thuộc của những người làm nghề hấp cá. Họ được xem là những người sống cùng, ăn cùng, ngủ cùng và “hôi cùng” với mùi tanh của cá tôm.

Lò hấp cá của bà Nguyễn Thị Chua (63 tuổi) nằm sâu trong con hẻm nhỏ. Từ ngoài đi vào men theo con hẻm, chúng tôi như bị cái mùi tanh của cá mực dội ngược ra, xộc thẳng lên mũi, đẩy thẳng lên tới não. Mùi tanh càng nặng dần theo từng bước chân. Càng tới gần lò hấp, cái mùi càng đậm đặc, không khí nặng trịch.

Lò hấp rộng chừng 30m2, chứa chật ních nào là cá cơm, cá nục, cá ngừ sọc dưa, mực… rồi những nồi hấp to đùng được đặt trên những bếp lửa đang cháy ngùn ngụt. Mùi tanh cá quyện với mùi khói bếp tạo nên thứ mùi đặc quánh, lởn vởn giữa không gian dồn nén, thách thức sức chịu đựng của bất cứ ai lần đầu đặt chân đến.

Mặc cho người lạ chống chọi với mùi tanh đang “tấn công” vào khí quản, từng phút từng giây xâm chiếm cơ thể, những người thợ cả nam lẫn nữ vẫn chăm chỉ lao động, làm việc một cách hết sức tự nhiên. Ngồi giữa những kết cá, sọt mực la liệt, những người phụ nữ vừa thoăn thoắt đôi tay vừa pha trò cười đùa như không để ý gì đến mùi tanh hôi xung quanh.

Gần đó, người đàn ông đứng bên lò, vừa canh chừng ngọn lửa, vừa loay hoay đưa cá vào, vớt cá ra, cả thân người ướt đẫm mồ hôi nhưng thỉnh thoảng vẫn góp một câu bông đùa.

Là người từng trực tiếp làm nghề hấp cá trước khi làm chủ lò, bà Chua thấu hiểu hơn ai hết đặc điểm của nghề. “Làm cái nghề này không nhọc nhằn gì mấy, nhưng phải giỏi chịu đựng mùi tanh. Người ta thường đùa rằng nghề này kiếm tiền nhờ cái mũi chứ không phải cái tay là vậy.

Trước giờ, cứ thỉnh thoảng lại có người xin vào làm, nhưng được vài hôm là bỏ nhảy vì không chịu được mùi tanh hôi. Thành ra lò thường có người đến xin việc nhưng vẫn cứ thiếu người. Cái nghề này nó chọn người chứ người không chọn được nó”, người chủ lò vui vẻ tâm sự.

Những mảnh đời “lấy nghề làm chồng”

Ở khu vực cảng cá Quy Nhơn, có hơn 10 lò hấp thì cũng có ngần ấy những mảnh đời phụ nữ không chồng. Người ta bảo đời người phụ nữ hấp cá chuyện buồn nhiều hơn chuyện vui là như vậy.

Bà Võ Thị Mạnh nay đã ngoài 60 tuổi, làm nghề này đã hơn 40 năm. Hồi trẻ, bà là một cô gái đẹp người đẹp nết nhưng đã theo cái nghề này nên ở vậy cho đến giờ. Dưới bà còn 4 người em gái đều trên 50 tuổi những cũng chỉ ở vậy làm nghề hấp cá chứ không lấy chồng.

Từ mấy chục năm trước, người mẹ mất sớm trong lần sinh con, bà Mạnh là chị cả phải phụ cha chăm lo cho 8 đứa em nheo nhóc. Ban đầu chỉ mình bà làm nghề hấp cá, sau đó bà dắt díu đàn em vào làm, cứ anh chị lớn đi làm lo cho các em nhỏ. Gánh nặng đè trĩu trên vai, bà với 4 người em gái lớn làm quần quật mà quên cả hạnh phúc bản thân. Cho đến bây giờ, 5 chị em bà vẫn chung sống với nhau bằng nghề hấp cá.

“Vì cuộc sống cả thôi. Tôi cũng muốn lấy chồng, cũng muốn lập gia đình, nhưng mà hồi đó mải lo cho các em, đâu có nghĩ cho bản thân được nhiều. Nhưng mà thôi, cũng là cái số ở đời, khi nào mình hết bấu víu vào cái lò hấp cá được thì nhờ em, nhờ cháu vậy”, bà Mạnh trút bầu tâm sự.

Sự cần cù chịu thương chịu khó của bà Mạnh có lẽ đã được đền đáp khi những người em út của bà dù sớm mồ côi mẹ nhưng sau này có cuộc sống ổn định. Dù bản thân chịu thiệt thòi nhưng bà đã hoàn thành được tâm nguyện của cha mẹ, làm tròn trách nhiệm của một người chị cả. Bây giờ, trong những năm tháng tuổi già, 5 chị em bà làm việc vừa là để lo thân, vừa là tìm niềm vui tuổi già.

Bà Võ Thị Phụng (53 tuổi) sinh ra trong gia đình nghèo có 3 chị em, vì cuộc sống khó khăn mà sớm phải bươn chải kiếm sống. Từ hồi còn là cô gái xuân thì, bà đã đến với nghề hấp cá rồi gắn bó tới tận bây giờ. Các em của bà giờ đã con cháu đề huề, riêng bà thì vẫn sớm tối đi về một mình.

“Hồi đó tôi cứ lủi thủi làm, sáng tối quanh quẩn trong lò hấp chứ có biết yêu đương là gì đâu. Mà cũng chẳng có anh nào trêu ghẹo hay hỏi cưới gì. Tôi cứ thế làm rồi cái tuổi nó đuổi xuân đi, khi nhìn lại thì đã quá lứa lỡ thì”, bà Phụng thủ thỉ.

“Thương nhau thương cả cái mùi”

Người cùng khổ, cùng nghề hấp cá, họ thương nhau, quý nhau ở cả cái mùi. Và với một số trường hợp, chính mùi cá ám ấy lại là ông tơ bà nguyệt se duyên cho những cặp đôi tìm được hạnh phúc.

Câu chuyện của vợ chồng chị Nguyễn Thị Hiền (37 tuổi) và anh Cáp Văn Đĩnh (43 tuổi) như là một minh chứng. Chị Hiền là con gái thứ 3 trong gia đình làm nghề hấp cá. Chị theo mẹ làm nghề hấp cá từ nhỏ. Cách đây hơn 10 năm, anh Đĩnh hay đánh xe đến lấy cá hấp từ lò của gia đình chị đi bỏ mối các chợ xa. Nhiều lần đến lò hấp, anh thường gặp chị rồi thân thiết và bén duyên từ đó. Đến giờ, anh chị đã được 2 cháu trai kháu khỉnh.

Hằng ngày, sau khi những mẻ cá hấp chất đầy xe hàng là anh chị lại cùng nhau đi bán ở các chợ thuộc huyện Tây Sơn, nơi cách Quy Nhơn 50km. Công việc thức khuya dậy sớm khá bận rộn nhưng anh chị vẫn gắn bó, yêu thương nhau hết mực.

“Nhìn chúng tôi hạnh phúc, nhiều người hay trêu nếu không có cái mùi cá nó ám, chắc gì tụi tôi đã lấy nhau. Vợ chồng cùng làm nghề nên hiểu được nỗi khổ của nghề, mới dễ dàng đi đến được với nhau. Tôi nghĩ, nếu thương nhau thì thương cả cái mùi…”, chị cười hiền.

Vợ chồng anh Lê Văn Sơn (47 tuổi) cũng đến với nhau từ cái mùi tanh của cá mực. Trước kia, anh làm nghề đi bạn thuê cho các tàu đánh bắt cá trong thành phố, còn vợ anh là cô bán cá trên bến. Cùng là dân biển, cùng mưu sinh trong cái mùi tanh hải sản, anh chị thân thiết sau những lần ghe cập bến rồi duyên đến lúc nào không hay.

Từ ngày cưới chị, anh ở lại bờ, cùng nhau mở lò hấp cá. Hằng ngày, họ dậy sớm cùng nhau vượt qua những nhọc nhằn của nghề hấp cá. Trong vất vả, cái mùi cá tanh hôi kia càng làm cho anh chị gắn bó, yêu thương nhau nhiều hơn.

Bình quân mỗi ngày anh Sơn có thể kiếm được khoảng 200.000 đồng, cộng với số tiền vợ buôn bán cá ngoài chợ nên có thể lo cho 2 đứa con đang là sinh viên ở TP.Hồ Chí Minh và 2 đứa con nhỏ đang học phổ thông.

“Làm nghề này cực lắm nhưng cũng tạm được. Với lại, tôi chữ nghĩa chẳng có nên chỉ biết gắn bó với nghề này thôi. Đời mình coi như xong, chủ yếu dồn hết cho mấy đứa con ăn học kiếm cái chữ. Mong sau này nó khấm khá hơn mình”, anh Sơn bộc bạch.