Riêng tháng 8 (từ 1/8 - 31/8/2023) số ca mắc tăng, ghi nhận 106 ca, tăng 57 ca so với cùng kỳ năm 2022 (106/49 ca) và tăng 12 ca so với tháng 7 (106/94 ca). Trong đó, có 1 ca tử vong (bệnh nhân nữ 16 tuổi, dân tộc H’Mông, địa chỉ huyện Trạm Tấu). Nguyên nhân tử vong là do bệnh nhân đến viện khám và điều trị muộn, khi đến bệnh viện, các triệu chứng bệnh đã rất nặng nề, tình trạng bệnh lý diễn biến nhanh, kèm theo các biến chứng sốc nhiễm khuẩn, rối loạn đông máu, chảy máu tiêu hóa tiên lượng rất xấu và tử vong sau 1 ngày điều trị.

Bệnh sốt mò còn có tên gọi khác là sốt bụi rậm, sốt phát ban rừng... Nguyên nhân gây bệnh là do loại vi khuẩn Orientalis tsutsugamushi, thuộc họ Rickettsia, truyền bệnh sang người khi bị ấu trùng mò đốt. Nguồn truyền nhiễm là các động vật hoang dã như loài gậm nhấm (chủ yếu là chuột), thỏ, các loài chim, hoặc gia súc (chó, lợn, gà)… Trung gian truyền bệnh là ấu trùng mò bị nhiễm R. orientalis khi hút máu vật chủ có mang mầm bệnh, sau đó ấu trùng mò phát triển thành mò trưởng thành và đẻ trứng, trứng nở thành ấu trùng đã mang sẵn mầm bệnh và sẵn sàng hút máu (mò có thể truyền mầm bệnh qua trứng đến đời thứ 3). Những con ấu trùng đời sau sẽ làm lây nhiễm cho các con vật khác và người khi đốt và hút máu, như vậy mò vừa là vật chủ, vừa là trung gian truyền bệnh.

Ấu trùng mò có kích thước bé dưới 1 mm, màu sắc từ vàng đến da cam, còn gọi là mò đỏ. Ấu trùng là giai đoạn phát triển duy nhất của mò ký sinh ở động vật có xương sống (chuột và thú nhỏ), thời gian đốt kéo dài trung bình 48 - 72h, đốt xong ấu trùng trở về mặt đất, trưởng thành và sinh sản ra thế hệ sau. Chu kỳ sinh trưởng của mò dài 2 - 3 tháng (vùng ấm) và trên 8 tháng (vùng lạnh); mò trưởng thành sống trung bình 15 tháng. Đây cũng là một trong các yếu tố dịch tễ làm cho bệnh sốt mò phát triển, tồn tại dai dẳng, khó kiểm soát triệt để nguồn truyền nhiễm. Bệnh xảy ra quanh năm nhưng chủ yếu về mùa mưa từ tháng 4-5 đến tháng 9-10, cao điểm của bệnh vào những tháng 6 đến tháng 9.

Điều kiện lây truyền: mò Leptotrombidium thường sống ở các bụi cây, bụi cỏ ẩm... phía trên là các vòm cây cao; hoặc trong các hang đá có các loài gặm nhấm sống. Mọi lứa tuổi đều có thể nhiễm bệnh nhưng chủ yếu bệnh phân bố ở lứa tuổi lao động, phân bố theo tính chất nghề nghiệp như lâm nghiệp, người đi săn, phát rẫy làm nương... hoặc người đi qua các vùng ven suối, ven sông, vào các hang đá; bệnh gặp chủ yếu ở vùng nông thôn và miền núi.

Vị trí mò thường đốt ở những vùng da mềm, ẩm, như bộ phận sinh dục, hậu môn, bẹn, nách, cổ… đôi khi ở vị trí trong vành tai, rốn, mi mắt.

Triệu chứng nhận biết về bệnh sốt mò:

+ Người bệnh có sốt, một, hai ngày đầu sốt nhẹ, sau đó sốt cao liên tục, cũng có nhiều trường hợp đột ngột sốt cao 39 - 40 độ C trong ngày đầu giống như sốt rét. Sau đó, sốt cao 40 độ C liên tục dai dẳng hoặc từng cơn, kéo dài từ 15 đến 20 ngày.

+ Vết loét đặc trưng của mò đốt: Lúc đầu tại nơi ấu trùng mò đốt có một nốt phỏng nước bằng hạt đỗ, không đau, bệnh nhân thường không chú ý, sau đó vết loét thường hình tròn hoặc bầu dục, đường kính từ 1mm đến 2cm, có vẩy đen, cứng, phủ trên một nốt sẩn có gờ cứng. Nếu vẩy đã bong thì để lại vết loét lõm, màu đỏ tươi, sạch không tiết dịch, không có mủ. Người bệnh không hề biết có vết loét vì hoàn toàn không đau, không ngứa hay rát.

+ Hạch: hạch khu vực to, thường ở gần nơi có vết loét, hạch sưng to bằng hạt táo, quả xoan hoặc có thể to hơn. Hạch khu vực thường to hơn hạch ở nơi khác, có thể kèm theo viêm quanh hạch, hạch khu vực thường xuất hiện cùng với sốt hoặc sau sốt 2 - 3 ngày. Ở Việt Nam, 100% bệnh nhân sốt mò đều có hạch sưng to.

+ Ban: xuất hiện ở cuối tuần đầu và đầu tuần thứ hai của bệnh. Thường là ban dát sẩn, kích thước từ hạt kê đến đường kính 1cm. Ban mọc khắp toàn thân (lưng, ngực, bụng, tứ chi) trừ lòng bàn tay, lòng bàn chân, ban tồn tại từ vài giờ tới một tuần.

Bệnh sốt mò vẫn còn hay gặp ở nước ta, tuy nhiên do không để ý đến yếu tố dịch tễ, không tìm và quan sát được vết loét, nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị kháng sinh đặc hiệu, dễ dẫn đến suy đa tạng và tử vong.

Hiện chưa có vaccine phòng bệnh nhưng thuốc điều trị đặc hiệu là những kháng sinh thế hệ cũ, giá thành thấp như Doxycyclin, Chloramphennicol... Tuy nhiên, sốt mò không có xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán xác định, biểu hiện của sốt mò rất giống với các bệnh lý nhiễm khuẩn khác nên dễ nhầm và bỏ sót bệnh, đặc biệt là các trường hợp không tìm được vết mò đốt và bệnh đã ở giai đoạn nặng khi đã có biến chứng.

Biến chứng của sốt mò rất nguy hiểm kéo theo tổn thương đa tạng như: Viêm cơ tim, trụy tim mạch; Đông máu nội mạc rải rác; Viêm phổi nặng, suy hô hấp; Viêm não và màng não; Suy gan cấp, tăng men gan; Sốc nhiễm khuẩn; Suy thận; Xuất huyết nội tạng.

Nếu được chẩn đoán đúng bệnh sốt mò, tình trạng nhiễm khuẩn của bệnh nhân sẽ cải thiện rất nhanh chóng, đặc biệt là dấu hiệu sốt, cải thiện các tạng bị suy, tình trạng toàn thân cải thiện và phục hồi.

Để chủ động phòng bệnh sốt mò, cách tốt nhất là thường xuyên vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân, vệ sinh nhà ở, diệt chuột, phun hóa chất diệt côn trùng… vệ sinh chuồng trại gia súc, gia cầm, rắc vôi bột, phun hóa chất… để hạn chế nơi trú ngụ, phát triển của tác nhân gây bệnh sốt mò. Sử dụng bảo hộ lao động, không nằm ngủ, nghỉ trên bãi cỏ, bìa rừng, nương đồi khi đi làm, tắm giặt, thay quần áo sau khi đi rừng, làm rẫy về…

Khi có các triệu chứng nghi ngờ sốt cao không rõ nguyên nhân và tìm thấy vết loét đặc trưng của mò đốt như trên, cần đến ngay cơ sở y tế khám và được tư vấn điều trị, không tự điều trị, không chữa bệnh bằng thuốc nam, mo, cúng và các biện pháp dân gian khác.